QUY TRÌNH KỸ THUẬT TRỒNG, CHĂM SÓC VÀ
THU HOẠCH
CÀ PHÊ CHÈ. (Tiêu chuẩn ngành 10TCN 527-2002)
1.
PHẠM VI ÁP DỤNG
Quy trình kỹ thuật
này áp dụng cho các vùng trồng cà phê chè ở các tỉnh phía Bắc từ đèo Hải Vân
trở ra. Riêng các tỉnh trồng cà phê chè ở phía Nam đèo Hải Vân, cần có độ cao
800m trở lên so với mặt nước biển với các giống cà phê chè thuần chủng, độ cao
trên 400m với giống Catimor và các giống lai khác có thời kì khô hạn ngắn và
nhiệt độ thấp vào sau thời kỳ thu hoạch.
2.TIÊU
CHUẨN TRÍCH DẪN:
- TCVN 4334-2001(ISO 3509 -1989): Cà
phê và các sản phẩm của cà phê, thuật ngữ và định nghĩa.
- 10TCN 84 - 87: Quy trình kỹ thuật
trồng cà phê.
- 10TCN 97- 88: Cà phê quả tươi
- 10TCN 98 - 88: Quy trình kỹ thuật chế
biến cà phê.
Thời kì kiến thiết cơ bản: 3 năm (1 năm
trồng 2 năm chăm sóc)
Năng suất bình quân trong suốt thời kì
kinh doanh
+ Trên đất nâu đỏ Bazan và đất đá vôi: 2,0
- 2,5 tấn nhân/ha
+ Trên các loại đất khác: 1,5 - 2,0 tấn
nhân/ha
4.
QUY TRÌNH KỸ THUẬT
4.1
TRỒNG MỚI
4.1.1
Thời vụ trồng
Thời vụ trồng cà
phê tùy thuộc vào khí hậu thời tiết từng vùng, bắt dầu vào đầu mùa mưa và kết
thúc trước mùa khô 2 - 3 tháng.
- Ở các tỉnh Tây
Nguyên: Từ 15/5 đến 15/8
- Các tỉnh Duyên
hải Nam
trung bộ:Từ 15/8 đến hết tháng 10
- Các tỉnh phía Bắc
từ đèo Hải Vân : Từ 15/7 đến hết tháng 9 và có thể trồng tháng 3 - 4 nếu có cây
giống.
4.1.2
Đất trồng
Các loại đất
bazan, đất poocphia, đất đá vôi, đất granít, gnei, đất phiến thạch sét, phù sa
cổ … có tầng đất dày trên 70cm, thoát nước tốt, mực nước ngầm nằm sâu cách mặt
đất trên 100cm, đất có độ dốc dưới 200, độ xốp trên 60%, lớp đất mặt
0 - 30 cm có hàm lượng hữu cơ tối thiểu 2,5%, độ chua pHkcl 4,5 - 6
đều trồng được cà phê chè. Trong thực tế thì đất bazan, đất đá vôi và độ dốc dưới
80 là thích hợp nhất.
Đất từ các vườn
cây bạch đàn, keo tai tượng, vườn cây ăn quả lâu năm hết nhiệm kỳ kinh tế, vườn
cà phê già cỗi hoặc bị bệnh thối rễ phải thanh lý thì phải xử lý đất bằng các
biện pháp khai hoang, cày bừa, rà rễ, gieo trồng cây phân xanh họ đậu, cây đậu
đỗ ăn hạt từ 2 - 3 vụ vùi thân lá vào đất để cải tạo đất, xử lý vôi, thuốc diệt
trừ nấm bệnh kiểm tra tuyến trùng, rệp sáp và các loại nấm bệnh trước lúc trồng
cà phê.
Đất đã bị thoái
hóa( trồng cây ngắn ngày không có hiệu qủa) thì phải bón nhiều phân hữu cơ,
hoặc phải cải tạo đất bằng gieo trồng cây họ đậu có bón thêm phân hóa học (20N
- 30 P2O5/ha) thân lá vùi vào đất liên tục trong 2 - 3
vụ.
4.1.3
Thiết kế vườn cây
- Nếu khu đất có
diện tích lớn, địa hình ít phân cắt, cần thiết kế thành từng khoảnh 10 - 15 ha,
chiều dài theo đường đồng mức. Trong khoảnh chia ra thành từng lô khoảng 1 ha (50
x 200m)
- Nếu khu đất hẹp,
địa hình phân cách mạnh thì chia lô theo đường phân cách của địa hình.
- Xung quanh
khoảnh nên có đường vận chuyển rộng 4 - 5m.
- Giữa các lô tùy
theo địa hình mà có các đường phân lô rộng 2 - 3m theo đường đồng mức.
4.1.4.
Mật độ, khoảng cách trồng và kích thước hố
Mật độ khoảng cách trồng phụ thuộc vào
giống cà phê và độ dốc.
Giống cà phê
|
Độ dốc dưới 8
độ
|
Độ dốc trên 8
độ
|
||
Khoảng cách (m)
|
Mật độ (cây/ha)
|
Khoảng cách (m)
|
Mật độ (cây/ha)
|
|
Catimor và các giống thấp cây khác
|
2 x 1,0
|
5.000
|
2 x 0,8
|
6.250
|
Các giống cà phê chè cao cây như Typica,
Bourbon
|
2,5 x 1,5
|
2.667
|
2,5 x 1,0
|
4.000
|
Hàng cà phê phải trồng theo đường đồng
mức, kích thước hố tối thiểu là:
- Dài 40cm, rộng
40cm, sâu 50cm đối với các giống cà phê thấp cây.
- Dài 50cm, rộng 50cm,
sâu 60cm đối với các giống cà phê cao cây.
Trên đất có độ dốc lớn thì hố trên các
hàng đều lệch nhau tạo thành nanh sấu. Khi đào thủ công thì đất đào để phía
dưới dốc, lớp đất mặt để riêng một phía, sau này trộn với phân hữu cơ, phân lân
để đưa xuống hố trồng.
4.1.5
Tiêu chuẩn cây giống
Cây giống ươm bằng hạt, khi đưa ra
trồng phải đạt các tiêu chuẩn sau:
- Tuổi cây: 6 - 8 tháng
- Số cặp lá thật: 5
- 7 cặp lá
- Chiều cao cây (kể
từ mặt bầu): 25 - 30cm
- Thân mọc thẳng
đứng
- Màu lá xanh đậm
- Đường kính gốc
thân: 2 - 3mm
- Cây không có dị
tật không bị sâu bệnh
- Kích thước bầu: 12
- 13 x 20 - 23cm
- Cây được đưa ra
ánh sáng hoàn toàn 10 - 15 ngày trước lúc trồng.
4.1.6
Trồng mới
- Trộn đều lớp đất
mặt với 5 - 6kg phân chuồng hoai mục 0,2 - 0,3 kg phân lân nung chảy rồi lấp
đất xuống hố. Công việc này phải hoàn thành trước khi trồng ít nhất 20 ngày.
- Khi trồng phải
trộn đất và phân trong hố một lần nữa, sau đó cuốc một hố nhỏ sâu 20 - 35cm,
rộng 15 - 20 cm ở chính giữa hố đã được lấp trước đó. Dùng dao xén túi bầu, cắt
rễ cọc bị cong ở đáy bầu, đặt cây vào hố điều chỉnh cây thẳng đứng và thẳng
hàng, mặt bầu đặt sâu cách mặt đất 5 - 6cm: ở các tỉnh miền Nam và ở Tây
Nguyên đặt bặt bầu cách mặt đất 10 - 15cm (trồng âm). Lấp đất từ từ, vừa lấp
vừa dùng tay nén chặt đất vào thành bầu, sau đó dùng chân dậm nhẹ xung quanh
cho chặt, chú ý không được làm vỡ bầu, mỗi hố chỉ trồng mỗi cây.
Trên đất dốc sau khi
trồng xong, tiến hành tạo ổ gà ở quanh gốc, nén chặt thành để tránh đất lấp cây
cà phê, ổ gà rộng hơn hố cà phê.
Trồng dặm kịp thời những cây bị chết, cây yếu,
trồng dặm vào đầu mùa mưa và chấm dứt trước kết thúc mùa mưa 01 tháng. Khi
trồng dặm chỉ cần móc đất và trồng lại trên hố cũ. Cây giống trồng dặm cũng
phải chọn cây tốt đủ tiêu chuẩn.
4.1.7
Trồng cây đai rừng, cây che bóng, cây trồng xen.
4.1.7.1
Đai rừng chắn gío
Đai rừng chắn gió
thẳng góc hoặc lệch 600 so với hướng gió chính, rộng 6 - 9m. Khoảng
cách đai rừng tùy theo kích thước của khoảnh. Có thể trồng hai hàng cây muồng
đen (Casia Seamia Lamk), hàng cách
hàng 2m, cây cách cây 2m hoặc 3 hàng cây bạch đàn (Eucalyptus sp), cây tràm hoa vàng (Acacia auricutiformis), cây keo tai tượng( Aacia mangium) hàng cách hàng 1m, cây cách cây 1 - 2m trồng nanh
sấu, ngoài đai rừng chính còn có các đai rừng phụ trồng thẳng góc với đai rừng
chính, một hàng cây keo tai tượng, tràm hoa vàng hoặc cây ăn qủa.
- Thiết kế đai
rừng kết hợp thiết kế lô khoảnh. Nếu có điều kiện thì trồng đai rừng trước lúc
trồng cà phê 1 - 2 tháng. Trên đỉnh đồi nên trồng cây rừng dày đặc để hạn chế xói mòn.
4.1.7.2
Cây che bóng
- Cây che bóng lâu
dài dùng các loại sau đây:
Cây muồng đen:
khoảng cách trồng 20 x 20m/cây.
Cây keo giậu ( Leucaen glauca Benth), cây muồng lá nhọn
(Cassiatora) khoảng cách trồng 10 x 10m/cây.
Các loại cây này
được gieo trồng vào bầu và chăm sóc cẩn thận, khi đạt độ cao 30 - 40cm mới đem
ra trồng. Vị trí trồng cây che bóng là ở trên hàng, giữa hai cây cà phê. Cây
che bóng được trồng đồng thời với lúc trồng cà phê. Có thể dùng cành bánh tẻ của
cây muồng lá nhọn trưởng thành cắm trực tiếp vào đất trong vụ mưa.
Khi cây che bóng
phát triển tốt, phải thường xuyên rong tỉa bớt cành ngang, tán cây che bóng
cách tán lá cà phê ít nhất 2 - 3m ở thời kỳ đầu và 4m trở lên ở thời kỳ kinh
doanh.
Cà phê trong vườn
hộ gia đình, sử dụng cây na, vải, chuối, nhãn, đu đủ, quế, hòe, mận, mơ…trồng xen
hoặc trồng xung quanh vườn, khoảng cách trồng 20 x 15m/cây để tăng thu nhập kết
hợp với làm cây che bóng, nhưng phải bón phân đầy đủ và rong tỉa cành ngang,
tạo hình thích hợp theo từng loại cây.
Cây che bóng tạm
thời: Cây cốt khí (Tephrosia candiia
DC), muồng hoa vàng (Casia surattensis
Burn), đậu công (Flemingia congesta)
là những cây che bóng chắn gió tạm thời, thích hợp cho cà phê kiến thiết cơ
bản. Hạt gieo vào đầu mùa mưa giữa hai hàng cà phê, khoảng cách 2 - 3 hàng cà
phê gieo một hàng cây che bóng, khi cây phát triển tốt cành chen tán cà phê thì
rong tỉa cành lá ép xanh vào gốc cà phê.
4.1.7.3.
Trồng xen cây họ đậu.
Vườn cà phê chè ba
năm đầu, cây chưa giao tán nên trồng xen cây đậu đỗ ăn hạt và cây phân xanh họ
đậu giữa hai hàng cà phê để tăng thêm thu nhập, bảo vệ cải tạo đất và cung cấp
sinh khối hữu cơ chất lượng cao cho cây.
Các cây đậu đỗ ăn
hạt như lạc, đậu hồng đào, đậu tương, đậu đen… gieo vào đầu hoặc giữa vụ mưa,
phải bón phân và chăm sóc theo yêu cầu của cây, sau khi thu hoạch củ, hạt xong
thì tủ thân lá vào gốc cà phê hoặc đào rãnh vùi vào đất.
Các cây phân xanh
họ đậu như muồng hoa vàng, đậu công, đậu chiều (Cajanus flavus DC); đậu mèo ngồi (Indigofera tinetoria), trinh nữ không gai (Mimosa invisa var inermis) gieo vào các tháng trong vụ mưa, khi ra
hoa thì cắt thân lá vùi vào đất, một năm có thể cắt thân lá 2 - 3 lần.
Các cây trồng xen
phải cách gốc cà phê 40 - 50cm, không gieo xen cây cốt khí, ngô, sắn, lúa vào
vườn cà phê.
4.2.
CHĂM SÓC
4.2.1.
Làm cỏ
Trong giai đoạn
kiến thiết cơ bản, cà phê chưa giao tán, chỉ làm cỏ sạch dọc hàng cà phê với
chiều rộng lớn hơn tán cà phê, chừa lại băng cỏ giữa hai hàng cà phê để chống
xói mòn đất, mỗi năm làm cỏ 4 - 5 lần và phát ngọn cỏ không được để cỏ cao bằng
cà phê.
Trong giai đoạn cà
phê kinh doanh cần làm cỏ sạch toàn bộ diện tích, làm 3 - 4 lần trong năm. Tất
cả thân lá cỏ và các tàn dư thực vật có trong vườn cà phê đều được chôn vùi vào
đất để tăng độ xốp và cung cấp dinh dưỡng cho cây.
Nếu có quá nhiều
cỏ tranh, cỏ gấu, cỏ gừng, cỏ trai… thì dùng thuốc Round up, Spark, Nufarm nồng
độ 4 - 6 lít thuốc pha với 400 - 500 lít nước phun cho 1ha. Phun vào lúc cỏ còn
non, sinh trưởng mạnh.
4.2.2.
Tạo bồn, tạo bậc thang dần.
Cách tạo bồn đơn
giản là lấy đất quanh gốc, đắp thành bờ ở phía ngoài mép tán, nén chặt thành
bờ, chỗ lấy đất không được sâu quá 15cm và được lấp đầy dần bằng cỏ, các tàn dư
thực vật và đất phía trong gốc tự trôi xuống. Hàng năm bồn được mở rộng theo
tán cà phê cho đến khi đạt kích thước 1-1.5m, thành bồn cao khoảng 10 - 15cm:
việc vét đất làm bồn được tiến hành vào đầu mùa mưa và phải tránh làm tổn
thương bộ rễ cà phê.
Đất có độ dốc trên
80 cần phải tạo bậc thang dần, công việc này được thực hiện từ khi
đào hố, chuẩn bị đất trồng và suốt trong quá trình chăm sóc làm cỏ cà phê. Mỗi
lần làm cỏ cần có ý thức dùng thân cỏ, cành cây cứng, đá tảng… xếp thành hàng
về phía dưới, rồi san dần đất phía trên gốc đưa xuống làm liên tục hai ba năm
đầu sẽ thành bậc thang hẹp tương đối hoàn chỉnh.
4.2.3.
Bón phân
4.2.3.1.
Bón phân hữu cơ
Phân chuồng hoai
mục được bón định kỳ 3-4 năm một lần với lượng 5 - 10kg/gốc. Nếu không có phân
chuồng có thể bổ sung các nguồn phân hữu cơ khác hoặc bằng các loại phân xanh.
Phân chuồng và các
loại phân hữu cơ bón theo rãnh vào đầu hay giữa mùa mưa, rãnh đào một phía dọc
theo thành bồn, rộng 15-20cm sâu 20-25cm, đưa phân xuống rãnh, lấp đất. Các năm
sau rãnh đào về phía khác.
4.2.3.2
Bón phân hóa học
a.
Liều lượng
Định lượng phân
hóa học bón cho cà phê hàng năm theo bảng dưới đây:
Luợng phân nguyên
chất (kg/ha/năm)
Tuổi cà phê
|
N
|
P205
|
K20
|
Trồng mới
|
40 - 50
|
150 - 180
|
30 - 30
|
Chăm sóc 1
Chăm sóc 2
|
70 - 95
160 - 185
|
80 - 90
80 - 90
|
50 - 60
180 - 210
|
Kinh doanh chu kì 1
|
255 - 280
|
90 - 120
|
270 - 300
|
Cưa đốn phục hồi
(bón nuôi chồi)
|
115 - 140
|
150 - 180
|
120-150
|
Kinh doanh chu kì 2
|
255-280
|
90-120
|
270-300
|
Ghi chú: Khi dùng
các loại phân đơn hoặc phân hỗn hợp NPK, thì căn cứ vào tỷ lệ nguyên chất của
các loại phân để tính cho đủ lượng bón.
b.
Cách bón
- Với cà phê trồng
mới: Khoảng 20-25 ngày sau khi trồng thì tiến hành bón thúc phân đạm và kali.
Chia đều lượng phân trên bón làm 2 lần trong mùa mưa. Toàn bộ phân lân bón lót
vào hố tước khi trồng.
- Với các tuổi cà
phê khác: 100% lân bón lần 1, rãi đều xung quanh trong phạm vi tán cà phê. Phân
đạm và kali bón 4 lần theo bảng sau:
THỜI KỲ VÀ TỈ LỆ BÓN PHÂN KHOẢNG BÓN TRONG NĂM
Loại phân
|
Tỷ lệ bón (%)
|
|||
Lần 1
tháng 2 - 3
|
Lần 2
tháng 4-5
|
Lần 3
tháng 6-7
|
Lần 4
tháng 9-10
|
|
Đạm
|
20
|
30
|
30
|
20
|
Lân
|
100
|
-
|
-
|
-
|
Kali
|
20
|
30
|
30
|
20
|
- Dùng dạng đạm
sunfat amôn để bón lần 1, các tỉnh phía Nam
bón lần 1 kết hợp với tưới nước.
- Đào rãnh xung quanh
tán cà phê cách gốc 10-30cm, rộng 10-15cm, sâu 5cm, rải đều phân rồi lấp đất.
Ngoài lượng phân
quy định trên: để đảm bảo cho vườn cây bền vững, năng suất cao ổn định thì 2-3
năm có thể bón vôi một lần với lượng 500-1000kg vôi/ha, bón vào đầu vụ mưa, rải
đều trong phạm vi tán cây.
Ở giai đoạn kinh
doanh hàng năm có thể bón thêm 10-15kg ZnSO4 và 10-15kg H3BO4,
trộn đều với đạm, kali bón hoặc phun trực tiếp lên lá với nồng độ 0,5%.
4.2.4
Tưới nước
Ở Tây Nguyên vào
đầu mùa khô cần tưới khoảng 3-4 đợt, mỗi đợt tưới cách nhau 20-25 ngày, lượng
nước tưới tùy thuộc vào tuổi cây: Năm trồng mới và hai năm chăm sóc tiếp theo cần
tưới 200 - 300 m3/ha/1 lần tưới.
Các năm kinh doanh
cần 400 - 500m3/ha/1 lần tưới. Riêng đợt tưới đầu cho cà phê kinh
doanh là vào thời điểm mầm hoa đã phát triển đầy đủ (cuối tháng 1) và phải tưới
lượng nước 600 m3/ha/đợt đầu.
Cà phê trồng ở các
tỉnh phía Bắc: (từ đèo Hải Vân trở ra) không cần tưới những nơi có điều kiện
thuận lợi nên tưới vào những thời điểm khô hạn kéo dài.
4.2.5
Tạo hình
- Cắt bỏ những
chồi vượt mọc từ gốc hoặc từ nách lá trên thân kịp thời.
Không để thêm thân phụ, trường hợp thân
chính bị gẫy thì để một chồi vượt to khỏe thay thế.
- Cắt bỏ cành tăm,
cành vòi vo, cành chùm, những cành nhỏ ở phía giáp thân, cành bị sâu bệnh, cành
khô, cành thứ cấp mọc hướng vào trong hoặc hướng xuống dưới, cành mọc sát thân
chính ở đốt 1, 2, 3 trên cành cơ bản. Tỉa thưa bớt cành thứ cấp nếu thấy quá
dày, cắt ngắn những cành già cỗi không có khả năng ra quả vụ tiếp, cắt bỏ cành
cơ bản chạm sát mặt đất và cành mọc sát nhau.
Các công việc cắt
cành tạo tán phải làm thường xuyên và phải đặc biệt chú ý cắt tỉa cành sau khi
đã thu hoạch xong.
- Các giống
Bourbon, Typica, Mundo Novo hãm ngọn lần 1 ở độ cao 1,4m sau 2-3 năm các cành
cơ bản phát sinh cành thứ cấp và cành dưới già cỗi thì chọn một chồi vượt to
khỏe gần đỉnh tán để nuôi tầng thứ hai và hãm ngọn ở độ cao cả cây 1,6-1,8m.
Các giống thấp cây,
tán bé, khả năng phát triển chiều cao hạn chế như Caturra, Catuai, Catimor thì
hãm ngọn một lần ở độ cao 1,8m.
Cần chú ý vặt bỏ
các chồi vượt mọc lên sau khi hãm ngọn.
4.2.6
Cưa đốn phục hồi (trẻ hóa vườn cây)
Vườn cà phê già
không còn khả năng cho năng suất cao, không có hiệu quả kinh tế thì tiến hành
cưa đốn phục hồi, chuyển sang chu kỳ kinh tế 2.
- Thời vụ cưa đốn:
Tháng 2, 3 ở phía Bắc; tháng 3, 4 ở Tây Nguyên thường là sau khi thu hoạch xong
hoặc đầu mùa mưa.
- Dùng cưa cưa
thân, để lại đoạn gốc cách mặt đất 20-25cm bề mặt cắt phải phẳng và vát một góc
450 không hướng về hướng tây, sau đó chuyển toàn bộ thân chính ra
khỏi vườn. Rong tỉa cành cây che bóng để cho ánh sáng lọt vào khoảng 60 - 70%.
- Đào bỏ các gốc
chết, bón 5-10kg phân chuồng và 0,2 - 0,3kg lân nung chảy/ hố trồng dặm vào mùa
mưa năm đó hoặc năm tiếp theo.
- Rải đều 500-1000kg vôi/ha, cuốc xới toàn bộ đất giữa hai
hàng gốc cà phê để trộn vôi vào đất và làm tơi xốp đất.
- Sau khi cưa 1-2
tháng, giữ lại 4-5 chồi to khỏe phân bố đều trên thân gốc để giữ lại. Khi chồi
này cao khoảng 20-30cm chỉ giữ lại một gốc hai chồi để tạo thân, thường xuyên
loại bỏ tất cả các chồi vượt phát sinh.
- Đầu mùa mưa tiến
hành bón phân theo định lượng và phương pháp bón như đã trình bày ở trên.
- Tiến hành gieo
xen cây phân xanh họ đậu đỗ ăn hạt vào giữa hai hàng cà phê. Thân lá ép xanh
bón 5 - 10kg phân chuồng/gốc.
- Chiều cao hãm
ngọn ở chu kì này là 1,6 - 1,7m và tiến hành các biện pháp tạo hình tỉa cành
như chu kỳ đầu.
4.2.7.
Biện pháp kỹ thuật hạn chế tác hại của sương muối
1. Những
vùng thường hay xuất hiện sương muối cần phải chú ý đến những biện pháp sau
đây:
- Không trồng cà
phê trên các địa bàn có tần suất sương muối dày (dưới 8 năm bị một lần), không
trồng cà phê trên các sườn đồi đón gió lạnh và các thung lũng sâu.
- Vùng trồng cà
phê nhất thiết phải có đai rừng chắn gió lạnh, trồng rừng phòng hộ. Được chắn ở
phía đón gió và cần phải tạo lập các đai rừng quanh đồi cà phê hoặc các lô
khoảnh cà phê.
- Phải có hệ thống
cây che bóng chắn gió tầng cao và tầng thấp ngay trong vườn cà phê, hệ thống
này dày hơn các vùng không có sương muối.
- Che tủ gốc cà
phê tốt bằng các tàn dư hữu cơ, các phụ chế phẩm nông nghiệp (thân ngô, rơm
rạ...). khi có dự báo sương muối nếu có điều kiện thì tưới nước cho cà phê hoặc
hun khói ở đầu hướng gió.
2.
Khi vườn cà phê bị sương muối thì phải xử lý các biện pháp sau đây:
- Nhanh chóng cưa
đốn loại bỏ thân cũ, cưa càng sớm càng tốt, độ cao gốc để lại tái sinh 7-10 cm
chỉ thực hiện với cà phê kinh doanh và cà phê đang chăm sóc năm thứ 2 trở lên.
- Bón vãi đều
500-1000 kg vôi; 1000kg phân lân nung chảy; cuốc, xới xáo sâu 5-10 cm toàn bộ
mặt đất giữa hai hàng cà phê trộn lấp phân. Gieo trồng xen cây phân xanh họ
đậu, đậu đỗ ăn hạt, thân lá vùi ép xanh cho cây cà phê.
- Khi chồi cao
20-30 cm loại bỏ hết chồi xấu, đẻ lại 3-4 chồi to khoẻ phân bố quanh gốc và
cuối cùng chỉ để một gốc 1-2 chồi làm thân chính.
- Bón phân và chăm
sóc như cà phê cưa đốn phục hồi.
4.2.8.
Phòng trừ sâu bệnh hại
4.2.8.1.
Sâu hại
a. Sâu đục thân mình trắng (sâu Bore
xylotrechus quadrripes).
Gây hại chủ yếu
trên cây cà phê từ năm thứ 3 trở di. Sâu trưỏng thành là loài xén tóc dài
8-10mm, đẻ trứng vào các kẽ nứt của vỏ cây, sâu non có màu trắng dài 2-2,5mm,
sâu non đục các đường lằn vòng vèo ngoài vỏ, sau đó ăn vào phần gỗ làm chết cây
cà phê.
Phòng trừ: Thu gom các cây đã bị sâu
hại đem đốt, trồng cây che bóng với mật độ phù hợp.
Theo dõi các đợt
trưởng thành ra rộ của sâu và phòng trừ ở giai đoạn trứng và sâu non bằng một
số loại thuốc sau:
` -
Supracid 40EC 0,25% + dầu diezel 0,5%.
-
Hoặc Diazinol 50EC
0,25% + dầu diezel 0,5% phun lên phần thân cây.
Dùng hỗn hợp sau đây quét lên phần hoá
gỗ của thân cây và của cành lớn: Supracid hay Sumithion: 1-2 phần
Phân
trâu bò tươi : 5 phần
Đất
sét : 10
phần
Nước
lã : 15
phần
Thường phòng trừ vào các đợt sâu đẻ
trứng rộ vào tháng 4, 5, 10, 11.
b.
Sâu tiện vỏ (Dihammus cervinus battes)
Sâu
trưỏng thành là một loại xén tóc, đẻ trứng ở phần gốc sát mặt đất. Sâu tiện vỏ
đặc biệt gây hại trên cây cà phê chè ở năm thứ 1 và thứ 2 của KTCB. Sâu non có
màu trắng, gặm phần vỏ và một phần gỗ ở gốc sát mặt đất quanh thân làm cây héo
vàng rồi chết.
Phòng
trừ:
- Dùng các loại
thuốc và nồng độ như với sâu đục thân mình trắng, phun hoặc quét lên thân cây
vào tháng 4 đến tháng 5 hàng năm ở giai đoạn KTCB.
c.
Rệp vảy xanh (coccus viridis), rệp vảy
nâu (saissetia hemispherica)
Gây hại trên các
lá non và chồi non, chích hút nhựa làm rụng lá và kéo theo nấm muội đen. kiến
là côn trùng giúp rệp phát tán.
Phòng trừ:
Làm
sạch cỏ, cắt bỏ cành sát mặt đất để hạn chế kiến làm lây lan rệp. Không trồng
các cây ký chủ của rệp như sắn, cam, ổi, quýt, xoài, chè trong vườn cà phê.
Dùng
các thuốc Supracide, Diazinol, Pyrinex, Bi 58 nồng độ 0,15-0,2 % phun lên cây
có rệp. Cây bị nặng phun hai lần cách nhau một tuần.
d.
Rệp sáp (Pseudococcus spp)
Rệp
sáp có hình bầu dục , trên thân phủ một lớp sáp trắng xám mịn, gây hại ở nhiều
bộ phận khác nhau: cuống quả, chùm quả, phần non của cây và dưới rễ gây thối
quả, cháy lá và chết cây.
Phòng trừ :
Trên
lá, quả: phun Suppracide 40 EC 0,15 % hoặc Dimecron 100 DD 0,15-0,2%, Diazinol
50 EC 0,15%
Dưới
rễ: tưới vào gốc bằng một trong các loại thuốc trên, pha nồng độ 0,2% + 1 % dầu
hoả, lượng dùng 1lít dung dịch/gốc
đ.
Nhện đỏ (Red spider mie)
Xuất
hiện và gây hại vào mùa khô, nhện đỏ chích hút nhựa cây từ lá làm cho mặt lá
thường gồ ghề, các lá non và lá bánh tẻ sau khi bị hại thường có màu nâu hung
như bị cháy nắng. Lá bị hại rất dễ rụng.
Phòng trừ :
Trồng
cây che bóng, bón phân hữu cơ đủ sẽ hạn chế phát triển của nhện đỏ.
Dùng
một trong các loại thuốc sau để phun: Folidol E 605 0,1- 0,2 %; Diazinol dạng
sữa có nồng độ 0,1 0,2%
e.
Sâu hồng (zeuzera coffea)
Đục
vào phần ngọn của thân và cành ở thời kỳ kiến thiết cơ bản, thường mỗi cây chi
có một con sâu non gây hại.
Phòng trừ: bẻ cành đã bị hại (héo khô) chẻ cành diệt sâu kịp
thời.
g.
Mọt đục cành (Xyleborus morstatti)
Mọt
đục lỗ nhỏ bên dưới cành non làm cành héo dần và chết, mọt phát triển mạnh vào
mùa khô, phòng trừ bằng cách cắt đốt kịp thời những cây bị hại.
h.
Mọt đục quả: (Stephanoderes hampei)
Gây
hại ở giai đoạn quả chín, đục lỗ từ núm quả chín vào trong đẻ trứng sau đó phá
hoại hạt, mọt còn phá hoại quả và thân khô trong kho khi độ ẩm trên 13%.
Phòng trừ: Thu hái các quả ra trái vụ, nhặt quả rụng để tiêu
diệt nguồn sâu (bằng cách đốt).
Dùng
thuốc hoá học Supracide 0,15 %, Thiodan 0,25 % phun phòng trừ ở giai đoạn quả
xanh chuyển sang chín, phun hai lần cách nhau 3-4 tuần.
i.
Mối (Termes spp)
Mối
làm tổ trong đất, mối ăn dần vỏ cây từ gốc lên, lâu ngày làm chết cây.
Phòng trừ: Làm đất kỹ trước khi trồng để phá các tổ mối. Khi
thấy xuất hiện mối trên vườn cà phê phải đào đất tìm diệt mối chúa. Dùng thuốc
Basudin dạng sữa 50% nồng độ 0,1-0,2% phun hoặc quét lên thân cây.
k. Bọ hũ (Maladera orientalis).
Trưởng
thành còn được gọi là con bọ hung nâu, sâu non có màu trắng xám, đầu và răng có
màu nâu luôn nằm cong hình chữ C, sâu non gặm ăn phần thân nằm dưới mặt đất gây
chết cây ở thời kỳ kiến thiết cơ bản, trưởng thành ăn các lá cây vào ban đêm.
Phòng trừ: làm cỏ, xới xáo đất có tác dụng diệt và hạn chế tác
hại của sâu non.
Diệt
sâu non bằng việc rắc thuốc Basudin vào gốc cà phê (10g/gốc), diệt sâu trưởng
thành bọ hũ bằng thuốc Bi 58 nồng độ 0,15%.
4.2.8.2
Bệnh hại
a.
Bệnh gỉ sắt( Hemileia vastatrix)
Bệnh gây hại trên
lá cà phê làm rụng lá và mất năng suất. Các giống Bourbon, Caturra, typica…bị
nặng hơn các giống khác. Nấm ký sinh tạo thành các vết bệnh hình tròn với lớp
bột phấn màu vàng nhạt sau đó là màu da cam ở dưới mặt lá. Bệnh thường xuất
hiện vào tháng 10,11,12 và tháng 3,4 năm sau.
Phòng trừ: Sử dụng giống kháng bệnh, tăng cường bón phân hữu cơ,
vệ sinh đồng ruộng (chôn vùi lá, tàn dư thực vật). Trường hợp cây bị bệnh quá
nặng tàn rụi toàn bộ lá có thể ghép thay thế bằng một giống cà phê kháng bệnh (TN1,TN2,TH1).Loại
bỏ cây con bị bệnh ngay từ vườn ươm.
Phun
một trong các loại thuốc hóa học sau đây: Anvil 5SC 0,2%, Sumieight 12,5
WP 0,05%, Baylenton 0,1%, Boocdo 1% phun hai lần cách nhau 3 tuần, 0,5 lít dung
dịch/ cây vào đầu mùa bệnh.
b. Bệnh khô cành
khô quả (Die Back)
Làm khô cành khô
quả, khô lá thành từng mảng trên phiến lá. Bệnh có nguyên nhân cây thiếu chất dinh dưỡng hoặc bị nấm Collectotrichum
coffeanum gây nên.
Phòng trừ: Trồng cây che bóng hợp lí và tăng cường dinh dưỡng
cho cây, cắt đoạn cành bị bệnh đã khô để đốt. Khi bệnh xuất hiện dùng các loại
thuốc có gốc đồng như: Boocdo 1%, Benlate 0,2%, Deroral 0,1%, Carbenzim 0,2%,
Tilt 0,1% phun 2-3 lần cách nhau 15 ngày.
c.Bệnh
nấm hồng (Do nấm Corticium salmonicolor)
Bệnh chủ yếu gây
hại trên cành, phần trên của tán cây. Bệnh thường xuất hiện trong các tháng
mưa, ẩm. Vết bệnh ban đầu là những chấm trắng nằm mặt dưới của cành, sau hồng
dần lan khắp chu vi cành và gây chết cành.
Phòng trừ: Phát hiện kịp thời để cắt cành bị bệnh. Dùng các
thuốc Validacin 2%, Anvil 0,2% phun 2-3 lần cách nhau 15 ngày, phun tập trung
vào quả và cành.
d.Bệnh
lở cổ rễ (do Rhizoctonia solani)
Gây hại phổ biến
trên cây cà phê con trong vườn ươm và cây ở giai đoạn KTCB, trồng trên đất có
thành phần cơ giới nặng.Cây bị thối toàn phần hoặc một phần cổ rễ khiến cây
sinh trưởng chậm, vàng lá và có thể chết cây.
Phòng trừ: Không để đất xung quanh gốc bị đóng váng và đọng
nước, tránh gây vết thương vùng cổ rễ. Nhổ đốt các cây bị bệnh nặng.
Cây bị bệnh nhẹ có
thể dùng một số loại thuốc sau: Benlate 0,5%, Validacin 3% tưới 2-3 lần cách
nhau 15 ngày.
đ.
Bệnh vàng lá thối rễ (do tuyến trùng và nấm)
Là loại bệnh nguy
hiểm có thể gây chết hàng loạt. Bệnh do sự phối hợp tấn công của tuyến trùng (Pratylenchus
coffeae và các nấm (Fusarium oxysporum, Fusarium solani, Rhizoctonia
battaticola). Bệnh làm cho cây sinhh trưởng chậm, ít cành thứ cấp và chồi vựơt,
lá chuyển màu vàng rễ tơ và cổ rễ bị thối. Cà phê kiến thiết cơ bản thường bị
nghiêm trọng trong mùa mưa, rễ cọc bị
thối.
Phòng bệnh:
Hiện tại chưa có thuốc đặc trị, phải
tuân thủ các quy định sau đây:
- Thường xuyên kiểm tra vườn cây, phát
hiện kịp thời cây bị bệnh nặng đào cây đốt, tưới thuốc Benlate C hay Bendazol
nồng độ 0.5%, 5 lít dung dịch/hố tưới 2lần cách nhau 15 ngày cho các cây xung
quanh vùng bệnh.
- Bón phân đầy đủ cân đối,,tăng cường
bón phân hữu cơ và vôi.
- Hạn chế xới xáo trong vườn cà phê đã
bị bệnh để tránh làm tổn thương bộ rễ.
- Đối với vườn già cỗi, vườn bị bệnh
sau khi thanh lý không được trồng lại ngay mà phải tiến hành rà rễ và luân
canh bằng các cây trồng ngắn ngày hoặc
cây phân xanh, cây đậu đỗ ít nhất 2-3 năm trước khi trồng lại cà phê.
5.THU HOẠCH
5.1 KỸ THUẬT THU HOẠCH
Thu hoạch những
quả đúng tầm chín trên cây, thu hái bằng tay, hái từng qủa, không được tuốt,
vặn cành, làm gãy cành. Thu hoạch nhiều lần trong một vụ để thu hết qủa chín,
phải ngừng thu hái trước và sau khi hoa nở 3-5 ngày.
5.2 YÊU CẦU KỸ THUẬT CỦA SẢN PHẨM
THU HOẠCH.
Sản phẩm thu hoạch
phải đạt trên 95% quả chín và tỷ lệ tạp chất không quá 0.5%, đợt thu hoạch cuối
vụ cũng phải đạt tỷ lệ qủa chín trên 85%, tạp chất không quá 1% và không chiếm
quá 10% tổng sản lượng toàn vụ.
5.3
BẢO QUẢN QUẢ CÀ PHÊ CHÍN
Quả cà phê sau lúc
thu hoạch trong vòng 12 giờ phải đươcj chuyên chở về cơ sở chế biến để xát vỏ
ngay trong ngày. Bao bì đựng cà phê quả và phương tiện vận chuyển phải sạch,
không nhiễm phân bón, hóa chất hoặc bùn cống rãnh… Nếu vận chuyển hay chế biến
không kịp thời thì bảo quản cà phê quả trên nền xi măng, nền gạch, khô ráo
thoáng mát, đổ thành từng đống nhỏ, có chiều dày khồng quá 40cm.